Thursday, March 26, 2009

Ba Mươi Năm - Giọt Lệ Và Niềm Tin

1 comments

Ba Mươi Năm - Giọt Lệ Và Niềm Tin

Cát Biển

Khi người ta nhập vào dòng chánh, có phải chăng bản sắc dân tộc càng lúc càng bị nhạt nhoà? Hơn ba mươi năm sống trên nước Mỹ, tiếng Anh vẫn luôn là yếu tố then chốt để người Việt thăng tiến trong nghề nghiệp. Đi làm ở các công tư sở, người kém tiếng Anh sẽ không vượt xa các đồng nghiệp. Vì vậy, dầu mang nỗi bùi ngùi nào đó khi thấy các con em mình mau mắn đối đáp bằng tiếng Anh thay vì tiếng Việt, chúng ta cần có sự thông cảm này. Nhìn lại, các quốc gia Đông Nam Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan...đều trọng dụng tiếng Anh. Các quốc gia này hầu hết đều có vài nhật báo Anh Ngữ phát hành trong xã hội của họ. Phi Luật Tân có mấy chục thổ ngữ, lại dùng tiếng Anh là chính. Ấn Độ cũng coi Anh Ngữ là ngôn ngữ hàng đầu trong giao dịch. Các người Âu Châu phần nhiều đều nói thông thạo Anh ngữ ngoài tiếng mẹ đẻ. Như vậy Anh ngữ trong thiên niên kỷ này có giá trị vượt lên khỏi tự ái và tự tôn của một dân tộc. Tiếng Anh là chìa khoá bước vào kho tàng văn hoá thế giới, và là điều kiện tiên quyết của giao thương kinh tế trong bối cảnh hoàn cầu hoá của chúng ta.

Tuy nhiên chúng ta không thể nào bỏ rơi tiếng Việt. Vì đó mới chính là tiềm lực, là sức mạnh âm ỉ mà mạnh mẽ nhất, nói lên sự thành công của người Mỹ gốc Việt. Giới trẻ Việt nay thành công trên nước Mỹ không ít thì đều nhiều dựa vào sức mạnh tiềm ẩn đó của bản sắc người Mỹ gốc Việt. Một ngày nào đó thử hỏi, nếu mất đi thành phố mang tên “Little Saigon”, chúng ta còn gì lấy làm hãnh diện sự thành công vượt bực của người Việt trên nước Mỹ, mà mới ngày nào chân ướt chân ráo xếp hàng đưa tay lãnh cơm tại trại tị nạn Orote Point ở Guam, năm 1975?

Dầu có những điểm khen chê, chính văn hoá Việt đã xây dựng nên một xã hội Việt trong nước Mỹ. Công lao đó phần lớn là nhờ vào tiếng Việt. Nếu hiểu điểm này thì chúng ta mới có thể sống vững mạnh trong xã hội đa nguyên của Hoa Kỳ. Giống như một người có yêu thực sự thì mới được đáp lại bằng một tình yêu đúng nghĩa.

Có người từng nói “phải cần cả một ngôi làng để hun đúc, đào tạo nên một con người.” Những ngày thơ ấu chúng ta cần bầu sữa mẹ và tiếng ru vành nôi để mình thương yêu nòi giống. Gia đình, để làm nền tảng đùm bọc. Khi lớn lên, cần tình bạn để thêm tự tin và trao dồi năng khiếu. Ra đời, chính các người chung quanh cho chúng ta những gương cao đẹp để vươn lên, và tự tìm lấy ý nghĩa kiếp người.

Thời tuổi nhỏ, trong đám học trò vỡ lòng có 1 tên bạn bé tí bằng tuổi tôi mà tôi rất thích. Giờ đây kể chuyện tôi vẫn còn nhớ rõ dáng vóc nhỏ nhắn đó của Cường, tên đầy đủ là Đinh Quốc Cường. Chúng tôi cùng học chung trường thầy giáo Thẹo. Thầy tên là thầy Nhiều, nhưng có 1 vết thẹo mé trên mí mắt do hồi đi kháng chiến nên ai cũng kêu là thầy giáo Thẹo. Trong lớp, chúng tôi ngồi gần nhau, tôi hay chỉ Cường làm toán. Cường lúc nào đi học cũng ăn mặc sạch sẽ, tươm tất, thơm tho. Chúng tôi hay mua đồ ăn và ngồi chia nhau ăn lúc ra chơi. Có hôm tôi thiếu cục gôm, Cường vui vẻ cho tôi cục gôm. Có lần tôi cho Cường cây bút mà tôi thích nhất. Quyển tập vỡ thời ấu thơ đó có in hàng chữ “Ngày Nay Học Tập, Ngày Mai Giúp Đời” ở hình bìa mà tôi vẫn nhớ mãi nằm lòng. Bây giờ vẫn còn nhớ rõ. Ngày gia đình tôi dời nhà sang ấp Đức Nghỉa, đi học trường khác tôi cứ nhớ mãi cậu bé Cường bạn tí hon cùng lớp đã cho tôi nhiều niềm vui của tình bạn. Đã bao nhiêu năm rồi nhỉ. Cường đã cho tôi một tình bạn thơ ấu đáng yêu và những nhận thức đầu đời về tính hi sinh. Người em của Cường là Đinh Quốc Tuấn sau này trở thành cây vợt tennis trẻ vô địch của Việt Nam. Tuấn chết lúc vượt biên.

Những năm trung học đầu tiên tôi có một người bạn thân khác tên là Đức. Chúng tôi thân nhau cả khi đi học lẫn sau giờ học. Anh ta lớn hơn tôi 2 tuổi, đánh đàn rất giỏi. Một hôm nọ, nghe anh hát “Tôi đưa em sang sông, chiều xưa mưa rơi âm thầm..” tôi bắt đầu suy nghĩ và ngạc nhiên về điều mà người lớn gọi là tinh yêu. Vài năm sau Đức phải nghỉ học vì gia cảnh túng thiếu.

Những ngày lớn khôn ở tuổi vào đời, tôi và mấy tên bạn thân cùng vui đùa, tinh nghịch, đùa giỡn, trêu chọc, tâm sự, thậm chí đấu nhau về triết lý. Tuổi mới lớn đó có cả những cãi cọ, đụng chạm, và uýnh lộn với nhóm khác. Nhưng nếu tuổi ấu thơ thật êm đềm như mực nước sông Mường Giang bình dị, thì tuổi mới lớn của tôi nhiều biến động ồ ạt như các cơn sóng dữ của Thái Bình Dương. Một ngày nọ tôi ngồi thừ người hoang mang khi biết rằng, ai đó rồi cũng phải chết. Điều đó làm tôi lặng người phân vân cả 1 buổi chiều. Thật là một sự thật đầy kinh ngạc. Giờ đây ngẫm lại, đám bạn xưa gồm Diệu Lý, Cu Tân, Bá Long, Hoàng Đen, Quang, Hùng, Dũng Lọ, Nam Bò, Thân, Tịnh v.v…giờ chỉ còn sống vài người. Dũng Lọ đẹp trai, Hoàng, và Nam Bò vui tính bị mất tích. Thân và Tịnh chết vì pháo kích. Tân chết vì viêm gan. Bá Long, người hài hước có duyên nhất, sau này đi lính và tử trận. Hơn một nữa đã về với cát bụi. Có một khoảng cách giữa mình và quá khứ. Việt Nam và Mỹ. Một hụt hẫng phân chia hai bờ cuộc sống.

Qua đến Mỹ, những bạn thân xưa đều lạc loài tứ tán. Những năm đầu còn nhớ và thương bạn. Sau đó quây quần với những xô bồ thực tế. Có khi mình còn quên cả chính mình, chỉ biết lủi theo dòng đời, giống như xe chạy nhập dòng trên xa lộ. Bạn bè như tinh tú, tuy không có mặt bên nhau nhưng hiện hữu để mình nhìn lên đó và tìm nhớ lại một phần của chính mình.

Ngày ra khỏi trại tị nạn Indiantown Gap về định cư tại thành phố Wilkes-Barre các người Việt tị nạn được học lớp ESL. Qua cô giáo trẻ tuổi Janet, tôi học một cách thích thú những từ ngữ mang ý nghĩa rất đẹp của tiếng Anh. Đại khái với các chữ rất thông dụng trong đời sống Mỹ như sau:

Blessing: Ân phúc, sự may mắn được ban cho
Lullaby: Bài hát ru con
Sophisticated: Tinh vi, sành điệu, sâu sắc
Renaissance: Thời kỳ phục hưng, đặt giá trị nơi mẫu người vẹn toàn, uyên bác
Cute: Xinh, có duyên, dễ thương
Cozy: Ấm cúng, thoải mái, dễ chịu
Passion: Niềm say mê, cảm xúc đam mê mạnh mẽ
Eternity: Sự vĩnh cửu, tính bất diệt, bất tử
Fantastic: tuyệt vời, lạ thường, trứ danh
Destiny: Định mệnh, số phận
Freedom: Tự do
Liberty: Quyền tự do bình đẳng, sự công bằng trong xã hội
Tranquility: Sự thanh bình, thanh tịnh, yên tĩnh
Blossom: Thăng hoa; nở hoa
Sweetheart: Người yêu dấu, người mình thương yêu
Gorgeous: Tuyệt đẹp, lộng lẫy, tráng lệ, huy hoàng, mỹ lệ
Cherish: yêu thương trân quý
Enthusiasm: Sự hăng say, nhiệt tình
Grace: Vẻ thanh lịch, duyên dáng, yêu kiều, phong nhã
Rainbow: Cầu vồng
Twinkle: Ánh sáng lấp lánh
Serenpidity: Sự trang nghiêm cao cả, bình an trong tỉnh lặng

Khi tôi được nhập học trường đại học Wilkes, ngoài lớp Anh văn ESL đặc biệt của trường dành cho các sinh viên ngoại quốc, tôi đều có thêm một hoặc hai sinh viên Mỹ dạy kèm Anh ngữ trong các giờ học riêng. Các sinh viên Mỹ dạy kèm này rất lịch sự, thông cảm và kiên nhẫn nên cũng giúp tôi vượt qua những khó khăn. Một sinh viên này là Diane Polachek, cây vợt tennis vô địch nữ của trường. Những ngày đầu rất thẹn thùng vì mình cứ phát âm sai, nhưng sau đó tôi mạnh dạn lập lại các chỗ sai và ráng đánh lưỡi cho đúng cách phát âm. Nhìn lại, không một kết quả nào mà không đòi hỏi sự kiên trì.

Sang Mỹ năm 1975 cái gì cũng không biết, mình phải dò dẫm tự học hỏi. Những ngày lam lũ chật vật với cuộc sống mới ở Mỹ, đời sống sinh viên quá bận rộn và đầy rẫy áp lực. Gánh vác một học trình khá nặng, mỗi khoảnh khắc của giờ giấc đều quý như vàng. Tiền không có dư dả chút nào, thèm mua cây kem $1 cũng phải suy nghĩ kỷ. Cuối tuần đi qua con phố chính Main Street ở Wilkes-Barre, chỉ mua được lát bánh pizza $1.29 là quý lắm. Có lần tôi mời bà thầy dạy văn chương, Dr. Charlotte Lord, đi ăn cho vui. Mình chỉ kêu được dĩa steamed clams giá $3.50. Bà vẫn vui tươi cười nói. Sau đó lại còn mời tôi ghé qua nhà bà ăn trả lể.

Dr. Lord là người đàn bà thông cảm, và bà quý tôi. Phải nói là bà quý tính phấn đấu của một sinh viên gốc Việt cố vươn lên từ khó khăn của nghịch cảnh. Những bài viết môn văn chương của tôi đầy những nét viết màu đỏ của bà phê và sửa lại lời văn cho đúng văn phạm. Có lẽ bà bỏ nhiều thì giờ cho các bài viết của tôi hơn các người khác trong lớp. Vì sợ sẽ bị rớt môn Anh văn năm đó, tôi cố viết nhiều, kể lại kinh nghiệm bản thân và ý nghĩa cao quý của hai chữ tự do đối với người Việt mà người khác có thể coi thường. Các hàng chữ sửa sai màu đỏ của bà giáo sư Lord càng lúc càng vơi đi, thay bằng những lời khuyến khích và hài lòng. Môn English 101 cuối cùng tôi cũng vượt qua với điểm B. Hãnh diện, nhưng không mãn nguyện. Vì tôi nhất quyết lấy con A. Giáo sư Lord đã qua đời khoảng 8 năm sau khi tôi rời trường. Bà rất xinh đẹp khi còn trẻ, có mấy mối tình, nhưng không hề lập gia đình. Bà mất năm 72 tuổi.

Nhưng nếu không nhờ những hàng chữ màu đỏ chi chít kia, làm sao tôi có thể trao dồi, dù là rất khổ sở hằng đêm vào dạo đó. Chính những hàng chữ đỏ đó đã giúp uốn nắn tôi thành một công dân Mỹ gốc Việt.

Phải nói cho rõ, tôi đã viết các bài luận văn đó một cách gián tiếp. Tôi đã đến với Anh ngữ qua Việt ngữ. Và cũng nhờ đó mà được sự thông cảm và quý mến của người thầy, Dr. Lord. Nhờ tiếng Việt, tôi đã có cơ hội thổ lộ tâm tình một người Việt tị nạn trong các bài luận văn, trước khi cố gắng dịch chúng sang Anh ngữ. Điều này giống như những lá thư ngày xưa với tuồng chữ mộc mạc của mẹ tôi thương mến viết cho tôi khi tôi xa nhà vào Saigon trọ học. Lời mẹ tôi trong những lá thơ yêu dấu với hàng chữ nghệch ngoạc kém văn hoa nhưng chứa đầy sự khôn ngoan qua năm tháng kèm một tình mẫu tử bao la, đã luôn làm tôi nhoà mắt khóc vì thương nhớ mẹ. Các bài luận Anh ngữ của thời đó tuy kém cỏi về giá trị văn phạm, nhưng mang những tâm sự đầy trắc ẩn của lớp người tị nạn mới trên nước Mỹ. Ba mươi năm nhìn lại, chính văn hoá Việt tiềm ẩn trong những hàng chữ tiếng Anh kia đã đánh thức lòng yêu quý của vị thầy người Mỹ. Qua hình ảnh tôi, Dr. Lord đã thấy lại sự phấn đấu của các lớp người tị nạn Ý, Trung Hoa, Mễ, Ái Nhỉ Lan, Anh v.v...đã chung sức tạo nên một nước Mỹ hiện tại. Nước Mỹ đa nguyên, với dân số không đầy 6% nhân loại, đã có những phát mình và thành quả kinh tế, quân sự, giáo dục, pháp luật, văn hoá mạnh hơn 60% các diễn biến trên thế giới.

Nhắc đến mẹ, lòng tôi không khỏi quặn lên một niềm hối hận. Những ngày thơ ấu ở Phan Thiết, gia đình tôi không dư dả nhiều, nhưng được cha mẹ tôi đùm bọc nên chị em chúng tôi không thấy bị thiếu thốn. Sau này lớn khôn thêm, nghe ba tôi kể chuyện những ngày cơ cực khi cha tôi mới lấy mẹ tôi, rồi quá nghèo khổ không thuốc thang chửa trị nên anh cả tôi bị chết, nước mắt tôi tự nhiên chảy đầm đìa. Dạo còn nhỏ, tôi cứ xin mẹ sinh thêm cho tôi một người anh khác, để khỏi bị lũ con nít trong xóm ăn hiếp. Nhớ nhất là những lúc mẹ đi buôn bán chiều về nhà. Mẹ luôn kêu tôi cho trái ổi, trái quýt, trái cam. Khi thì được trái xoài, măng cụt. Tiếng yêu thương của mẹ tôi là như thế. Không phải bằng lời nói “yêu thương” mà là cái nhìn âu yếm trìu mến, cái vuốt đầu khi mẹ sung sướng. Vậy mà khi sang Mỹ rồi, ai cũng lo phấn đấu với cuộc sống mới. Chợt nhớ lại những lúc tôi la mẹ vì mẹ bỏ đồ giặt và đổ đầy thuốc tẩy làm hư hết quần áo, hoặc khi mẹ rang popcorn trong microwave lâu quá làm cháy khét cả nhà. Mẹ tôi đành lặng im không đáp. Trời ơi, thấy mình sao kém cỏi nhỏ mọn quá. Sao mình không biết lựa lời để mẹ khỏi đau lòng. Bây giờ cha mẹ đã khuất núi rồi, làm sao mình sánh với những tình thương và hạnh phúc cha mẹ đã từng ban cho trong quãng đời khốn khổ kia.

Trở lại chuyện Anh văn, năm học thứ nhì sau lớp Dr. Lord là kỷ niệm đáng nhớ. Lớp English 102 vào năm đại học thứ hai là do Dr. Jack Hardy dạy. Jack sấp sỉ khoảng 40 tuổi, dáng người gầy dong dỏng, đẹp trai, tóc hơi quăn, mang kính và nghệ sĩ. Ông giảng bài mạch lạc và hấp dẫn. Ông là cố vấn đặc san Manuscript của trường Wilkes, do các sinh viên chuyên về ban Văn Chương biên tập. Báo có các bài phỏng vấn, tường trình, thơ truyện, và đặc biệt là tổ chức giải thơ văn có thưởng mỗi cuối năm học. Jack khởi đầu lớp English 102 của chúng tôi với lời khen ngợi 1 bài khảo luận (research paper) của một sinh viên khoá trước, đọc cho chúng tôi nghe làm mẫu. Năm đó tôi càng đọc càng rất khâm phục nhân vật Ralph Nader, tác giả sách “Unsafe At Any Speed”, mà lại viết bài phê bình chỉ trích quyển sách ông ta trong bài khảo luận của tôi. Tôi rất thích bài viết của mình nên khi chép tay, cố gò từng câu từng chữ cho thật đẹp, thật vừa ý. Có khi phải viết lại cả trang chỉ vì dư thừa mấy chữ mình không đắc ý. Bài nộp xong là gần cuối niên học. Ngày cuối của môn English 102 ông Jack nhắc với lớp là hôm trước ông cho chúng tôi nghe 1 bài khảo luận mẫu của 1 sinh viên. Hôm nay trong lớp này, có 1 bài khảo luận còn hay hơn bài đó. Và bài đó là của tôi. Môn đó tôi sung sướng được điểm A. Ông luật sư Ralph Nader ngày nay vẫn còn hay ra ứng cử chức vụ Tổng Thống Mỹ, để tranh đấu bảo vệ quyền lợi của người tiêu thụ. Sau đó là chuyện khác đáng nhớ về môn vẽ hội hoạ, mà bà khoa trưởng, Dr. D’vorsion, khuyên tôi nên đổi qua môn hội hoạ, trong khi tôi rất thích ngành Điện (mà sinh viên Việt gọi đùa là “điên nặng”).

Tiếp theo quãng đời học Anh ngữ trong trường, là những ngày theo đuổi ngành diễn thuyết khi đi làm việc. Vì ngành kỹ sư đòi hỏi phải thuyết trình thường xuyên diễn tiến các công việc và kỹ năng mới, nên tôi rất e ngại về vốn liếng tiếng Anh kém cỏi của mình. Rồi tôi quyết định lủi vào chỗ nào mà mình sợ hãi nhất. Tỉ dụ, tôi rất “ngán” trò chơi rollercoaster trong các amusement park của Mỹ. Vì sợ nó tôi quyết định xếp hàng đi chơi nó, và tự coi như mình đã chết rồi. Nhờ vậy mà tôi không còn sợ món chơi đáng khiếp đó nữa. Tương tự, tôi gia nhập hội thuyết trình viên Toastmasters International cũng vì ngán tiếng Anh. Hội có 1 club ngay trong sở làm.

Những tưởng chỉ gia nhập 1 thời gian ngắn để học hỏi, không ngờ duyên nợ này kéo dài 14 năm. Các hội viên trong club tôi đa số là các kỹ sư Mỹ có bằng cấp cao. Trung tâm nghiên cứu Exxon Production Research thường tuyển các nhân viên có bằng Cao Học và Tiến Sĩ nhiều hơn là bằng Cử Nhân. Tôi nhớ năm đầu vào hội, đi xem kỳ thi diễn thuyết cấp District của Thành Phố Houston, thật thích thú không thể tả với các thí sinh diễn giả đại diện các Khu Vực (gồm nhiều hội) về dự thi. Từ cách chọn đề tài, phát âm, sử dụng ngôn từ, cách khôi hài, đến giọng lên xuống của họ, tôi ngồi xem và lắng nghe một cách say mê từng bài diễn thuyết, lòng ước ao có một ngày nào mình cũng sẽ là một diễn giả thí sinh như họ. Có ngờ đâu cơ hội dun rủi, bài thi của tôi năm sau đó được thắng hạng nhất trong club. Đó là bài có tựa đề “Một Chuyến Phiêu Lưu Kỳ Thú”, nói về cuộc đời của tôi là một người Việt tị nạn, với những khổ đau sau ngày mất nước và cố gắng vượt khó khăn theo học đại học, cuối cùng tốt nghiệp kỹ sư. Câu chuyện thương tâm của người tị nạn Việt Nam làm một số người Mỹ thấy lại hình ảnh phấn đấu của các người tị nạn cha ông trước kia. Bài thuyết trình đó có đoạn cuối như sau:

“Có người bạn từng nói với tôi rằng chúng ta đều là Sản Phẩm Chưa Hoàn Tất của thượng đế...mãi cho đến, có thể nói là, hai giây cuối cùng trước khi mình nhắm mắt. Các bạn hỡi, hãy cứ mơ giấc mơ của bạn, và biến nó thành sự thật. Tất cả chỉ cần sự học hỏi. Học hỏi để đạt đến ý nguyện, bất chấp mọi giới hạn. Học hỏi để biết yêu quý cuộc sống. Dù cuộc đời không hoàn hảo, nó vẫn là một thế giới đẹp. Học hỏi cách sống đạt đến tuyệt đỉnh khả năng mà bạn có, vì cuộc đời là do chính chúng ta tạo ra nó. Không kém thảo mộc và tình tú, bạn là một đứa con của vũ trụ, bạn có quyền hiện hữu. Mỗi người trong chúng ta là những cá thể đặc thù, những đứa con đặc biệt của tạo hoá. Hãy trân quý điều đó. Khai phá nó. Làm tốt nó. Biến nó thành những gì tuyệt nhất, từ những gì thiên nhiên ban cho bạn, và không bao giờ, tuyệt đối không bao giờ, xem thường từng giây phút sống. Nếu bạn không làm được những điều vĩ đại, hãy cứ làm những điều tầm thường – nhưng làm những điều tầm thường đó một cách sâu sắc, vĩ đại. Cuộc đời không chỉ gồm những điều bạn đang có, mà gồm luôn cả những điều bạn Có Thể Có. Vì vậy, hãy mở rộng tầm nhìn và khai triển các ước vọng của bạn, hãy biến cuộc đời của bạn thành một chuyến phiêu lưu kỳ thú...”

Phải nói là tôi đã nói lên tính phấn đấu chung của người Mỹ gốc Việt. Tôi cũng chỉ là một người tị nạn tầm thường. Nhờ sức mạnh văn hoá tiềm ẩn của người Việt máu đỏ da vàng, tôi đã có cơ hội diễn bày tâm sự ấy, tính phấn đấu ấy như một đóng góp vào quốc gia Hoa Kỳ mà đã mở rộng vòng tay cứu giúp, từ định mệnh bất hạnh của dân tộc. Bài diễn văn đó thắng giải nhất kỳ thi trong Club, thắng luôn Khu Vực, rồi thắng cả ở District. Sau đó đại diện District đi thi Vùng (Regional) tại Austin TX, tôi theo luật thi, đổi bài diễn văn khác. Tôi được giải Ba kỳ thi Vùng. Mãi đến năm sau đó, khi dọn qua Long Beach CA, tôi mới thắng giải vô địch Vùng II (gồm California, Arizona, Nevada) và trở thành 1 trong 9 người dự thi chung kết giải vô địch thế giới về diễn thuyết.

Ngày mới qua trại Orote Point ở Guam xếp hàng đi lãnh thức ăn, lòng tôi đầy mặc cảm và thương tích với những chuyện buồn đau. Giờ đây ba mươi mấy năm nhìn lại. Là người Việt tị nạn, tôi hãnh diện với danh xưng Little Saigon trên đất Mỹ. Dầu tôi đang sống ở Nam Cali hay trôi dạt phương nào, lòng tôi vẫn mang niềm tự hào về giá trị biểu tượng của cái tên Little Saigon đầy thân yêu ấy. Nó cho tôi một đặc tính nhân bản về giá trị con người, cái gọi là personal identity. Giống như màu cờ vàng ba sọc đỏ, tên thành phố Little Saigon nói lên quá trình của một công cuộc hi sinh tranh đấu cho Tự Do của người Việt. Nó là tấm gương phấn đấu và kiên nhẫn chung của bao nhiêu người Mỹ gốc Việt. Từ con số không, những con người mất mát khổ đau ấy đã dựng lên thành phố Little Saigon ngay giữa lòng đất Mỹ, với tầm hoạt động và mãi lực đáng kể về kỹ thuật, y khoa, giáo dục, văn nghệ, luật pháp v.v...

Bài hát Hai Mươi Năm của nhạc sĩ Phan Văn Hưng vẫn còn vang vọng trong tim tôi “Hai mươi năm, đàn trẻ thơ nay đã lớn, và chàng trai nay đã già, những người xưa đã nằm xuống và rừng núi đã héo nhoà…Người còn yêu hãy còn nhớ, phải vượt qua những bến bờ..Phải tìm sâu trong hồn nước, những thoi thóp những mong chờ..Người còn tha thiết núi sông, thì sẽ thấy cơn mưa nguồn..Để lặn lội vẫn đi tìm, sẽ thấy đường dấu quê hương...” Thắm thoát đã hơn 30 năm. Tôi vẫn nhớ, nhớ rất nhiều, về tuổi ấu thơ thật đẹp của vùng dĩ vãng mà mình đã ngụp lặn trong văn hoá tiếng Việt. Tôi đang sống và nhớ các người bạn đã chết. Cuộc đời ở Hoa Kỳ như cách biệt với quá khứ cũ bằng một dòng sông vô hình nào đó. Một khoảng cách hụt hẫng mà mình phải vượt xuyên qua tâm thức thì mới đến được bến bờ kỷ niệm bên kia, giống như trong phim Back To The Future. Tôi luôn tự hứa là mình phải cố gắng phấn đấu trong dòng văn hoá Mỹ, nhưng sẽ không làm nhạt nhoà nguồn gốc Việt mà tạo hoá đã ban cho tôi.

Cát Biển




Hai Mươi Năm

Lời : Nam Dao
Nhạc : Phan Văn Hưng

Hai mươi năm
đàn trẻ thơ nay đã lớn
Và chàng trai nay đã già
Những người xưa đã nằm xuống
Và rừng núi đã héo nhòa

Hai mươi năm,
người cụt chân trên hè phố
Kẻ quyền uy trong căn nhà
Người nằm rên trong hộ xá
Là người sáng hay đã lòa

Người bỏ thây nơi trùng dương,
mộng nhổ neo trên sóng gầm !
Những hồn ma sau hàng kẽm,
những con mắt sâu trừng trừng .

Người nằm chết trên núi sông,
người đào sẵn trên ruộng đồng,
người lặn lội vẫn đi tìm,
bao con đường dấu quê hương !

Hai mươi năm,
những người đi đã về bến
Một vùng quê hương không còn
Những người điên trong ngục khám
Một đoàn quân trong khách sạn

Hai mươi năm,
nhiều kẻ gian trong làng xóm
Người hiền khô mang gông cùm
Kẻ mộng du lên bạo chúa
Người ngồi khóc trên sân chùa

Người hùng xưa nay giầu sang,
một thằng bé đứng trần truồng !
Nhìn người qua buôn và bán,
kẻ gian ác đi nghênh ngang !

Người già nua có nhớ không ?
hay đã quên những nỗi tình ?
Người đập đá trên nông trường,
trơ lưng còm cõi gió sương !

Hai mươi năm,
những nụ hoa cho người hái
Những thể xác cho ai đầy
Một thầy cô trong nhà chứa
Gặp trò xưa bỗng khóc òa

Hai mươi năm,
người còn tâm hay còn trí
Lòng sục sôi như vỡ bờ
Đàn lạc giây đang bỏ xó
Còn vọng nghe tiếng nức nở

Người chạy quanh theo thời thế,
rồi nhặng xanh bu lối về !
Mà lặng im bên mộ đá,
nào có biết gió Thu qua ?

Một người đi trong đám ma,
mặc người vui trong xa hoa !
Người tù tội trước quan toà,
chỉ gục đầu giấc mơ xa !

Hai mươi năm,
Triệu người đi trong cuộc sống
Mà thể xác như không hồn
Triệu người lao trong cùng khốn
Và buồn vui như bao lần

Hai mươi năm,
Người hiền lương dẫu còn sống
Phải cật lưng trong thiên đường
Những vết nhăn trên vừng trán
Và hòn than nung trong lòng

Người còn yêu hãy còn nhớ,
phải vượt qua những bến bờ
Phải tìm sâu trong hồn nước,
những thoi thóp những mong chờ

Người còn tha thiết núi sông,
thì sẽ thấy cơn mưa nguồn
Để lặn lội vẫn đi tìm,
sẽ thấy đường dấu quê hương .

Người còn tha thiết núi sông,
thì sẽ thấy cơn mưa nguồn
Để lặn lội vẫn đi tìm,
sẽ thấy đường dấu quê hương .

Hai mươi năm ...

I Told You So

0 comments
I Told You So

Carrie Underwood and Randy Travis

Verse 1
Suppose I called you up tonight
And told you that I love you
And suppose I said I want to come back home
And suppose I cried and said I think I finally learned my lesson
And Im tired of spending all my time alone
If I told you that I realized you're all I ever wanted
And it's killing me to be so far away
Would you tell me that you love me too
And would we cry together
Or would you simply laugh at me and say...

Chorus
I told you so, Oh I told you so
I told you some day you would come crawling back
And asking me to take you in
I told you so, but you had to go
Now I've found somebody new
And you will never break my heart in two again

Verse 2
If I got down on my knees
And told you I was yours forever
Would you get down on yours too and take my hand
Would we get that old-time feeling
Would we laugh and talk for hours
The way we did when our love first began
Would you tell me that you've missed me too
And that you've been so lonely
And you've waited for the day that I returned
And we'd live and love forever
And that I'm your one and only
Or would you say the tables finally turned

would you say...

Chorus

Friday, March 6, 2009

Is it Love or Infatuation?

0 comments

Is it Love or Infatuation?


Infatuation is instant desire. It is one set of glands calling to another.
Love is a friendship that has caught fire. It takes root and grows, one day at a time.
Infatuation is marked by a feeling of insecurity. You are excited and eager, but not genuinely happy. There are nagging doubts, unanswered questions, little bits and pieces about your beloved that you would just as soon not examine too closely. It might spoil the dream.
Love is quiet understanding and the mature acceptance of imperfection. It is real. It gives you strength and grows beyond you to bolster your beloved. You are warmed by his/her presence even when he/she is away. Miles do not separate you. You want him/her nearer, but near or far, you know he/she is yours and you can wait.
Infatuation says, "We must get married right away! I can't risk losing you!"
Love says, "Be patient. Do not panic. Plan your future with confidence."
Infatuation has an element of sexual excitement. If you are honest, you can admit it is difficult to be in one another's company unless you are sure it will end - in intimacy.
Love is the maturation of friendship. You must be friends before you can be lovers.
Infatuation lacks confidence. When he/she is away you wonder if he/she is cheating. Sometimes you check.
Love means trust. You are calm, secure and unthreatened. Your beloved feels that also and that makes them even more trustworthy.
Infatuation might lead you to do things you will regret later, but love never will.
Love is an upper. It makes you look up. It makes you think up. It makes you a better person.


(Author Unknown)

Sunday, March 1, 2009

Mắt Nhòa Đi Giữa Rừng Cờ Vàng

0 comments

Mắt Nhòa Đi Giữa Rừng Cờ Vàng

Màu cờ vàng ba sọc đỏ
thắm tươi tình đất Việt Nam
Như cha vẫn từng nhắn nhủ
Chết một lần hãy sống vinh quang

Ba miền quê cha đầy sóng gió
Huyết lệ Việt chảy tim màu sọc đỏ
Dương khí ngời gươm thiêng sáng tỏ
Quyết kiêu hùng ta chiến sĩ tự do

Miền đất hứa cờ xanh trắng đỏ
Đáy vực điêu tàn minh châu ngời sáng
Little Sàigòn thủ đô rực rỡ
Vì em dương cờ vàng ngạo nghễ hiên ngang

Bao bão giông một màu vàng bất khuất
Little Sàigòn em giữ kỷ nhé em
Máu kiêu hùng cha ông đã chảy
Phất hồn thiêng qua những đọa đầy

Ôi Little Sàigòn mắt nhòa lệ thấm
Việt Nam mãi trong ta một niềm kiêu hảnh
Đi giữa sắc màu trắng xanh đỏ thẩm
Còn có màu vàng lưu với sử xanh

Cát Biển
11/6/2008

Cờ vàng ba sọc đỏ
Cờ vàng ba sọc đỏ được dùng làm quốc kỳ cho Nước Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Ðại thành lập năm 1948. Lá cờ này cũng được tiếp tục dùng cho Nước Việt Nam Cộng Hòa do Ngô Ðình Diệm thành lập ngày 26/10/1956.
Từ sau năm 1975, cờ vàng ba sọc đỏ vẫn tiếp tục tung bay tại các trại tị nạn ở Ðông Nam Á và tại những nơi định cư của người Việt chống chế độ cộng sản.
Cờ vàng ba sọc đỏ có mặt trong hầu hết các buổi sinh hoạt tập thể, có tính hội đoàn và cộng đồng, kể cả văn hoá, xã hội, tôn giáo, v.v. của người Việt ra đi từ miền Nam. Trong ba mươi năm qua, việc sử dụng cờ vàng ba sọc đỏ như một ngọn cờ tụ nghĩa và đấu tranh đã và đang đem lại nhiều kết quả tích cực, góp phần hóa giải những xung khắc trong cộng đồng người Việt và khiến cho cờ đỏ sao vàng hầu như không có chỗ đứng công khai và trước đám động tại hải ngoại.

Niềm Đam Mê Miệt Mài của Anh Bằng

0 comments

Niềm Đam Mê Miệt Mài của Anh Bằng

Cát Biển

Nhạc sĩ Anh Bằng đã không ngừng nghỉ trong lãnh vực sáng tác. Người chiến sĩ với nhiều kinh nghiệm chiến trường ấy vẫn không ngần ngại tiếp tục xông pha nơi trận tuyến. Ông rất am tường về khúc sông mà ông đang bơi lội, và vẫn miệt mài liên tục lặn hụp trong đó để khai phá, mang về những hải sản đặc biêt cho kho tàng văn hoá Việt Nam. Nhạc của Anh Bằng rất đa dạng từ tình ca, quê hương, xã hội, đến những bài nhạc phổ thơ rất trang trọng sâu sắc.

Chúng ta hãy nhớ lại bản nhạc đấu tranh sau đây của Anh Bằng sáng tác trong tác phẩm CD Lữa Bolsa khi ông cùng sánh vai với các tác giả Nhật Ngân và Trầm Tử Thiêng để đóng góp cho khí thế chung, lúc mà đồng bào Nam Cali đã tập hợp hơn 10 ngàn người tại Little Saigon tràn ngập lá cờ vàng biểu tình phản đối Trần Trường và biến thành một làn sóng lửa lan truyền sự nhất tâm tranh đấu đi khắp nơi tại Hoa Kỳ và thế giới:

Đốt đuốc lên ! Ta đốt đuốc lên !
Cho tình anh em Việt Nam đoàn kết
Thắp nến lên ! Ta thắp nến lên !
Xua ngàn tối tăm ra ngoài trái tim cùng một lời nguyền
Đốt đuốc lên ! Ta đốt đuốc lên !
Cho cờ vàng lên rực cao Tổ quốc
Thắp nến lên ! Ta thắp nến lên
Cho màu sáng thơm da vàng Việt Nam

Bàn tay anh, bàn tay em, bàn tay treo nắng trên đường phố
Bàn chân anh, bàn chân em, bàn chân ngăn bão táp phong ba
Cờ trong tay, đèn trong tay, lòng hăng say tiến lên ngày mới
Nối dây ân tình, nối lửa đấu tranh, nối lửa đấu tranh...
Đốt đuốc lên ! Ta đốt đuốc lên !
Soi đời người dân Việt Nam nghèo đói
Thắp nến lên ! Ta thắp nến lên !
Kiên cường đấu tranh cho ngày ấm no cho quyền làm người

Đốt đuốc lên ! Ta đốt đuốc lên !
Soi mặt từng tên Việt gian lạc hướng
Thắp nến lên ! Ta thắp nến lên !
Khơi lửa đấu tranh cho cả quê hương.
Anh Bằng (Nỗi lửa đấu tranh)

Qua các nhạc phẩm của ông chúng ta tìm gặp được một tâm hồn thiết tha bình dị với những lời tâm sự thân tình chảy mãi như con nước của một dòng sông. Nhạc của Anh Bằng đầy nét trìu mến thiết tha nhưng không có nét bi quan, than thở, mà có thể nói vươn lên trước hoàn cảnh.

Người ơi khi cố quên là khi lòng nhớ thêm
Dòng đời là chuỗi tiếc nhớ
Mơ vui là lúc ngàn đắng cay... xé tâm hồn
Tàn đêm tôi khóc khi trời mưa buồn hắt hiu
Lòng mình thầm nhớ dĩ vãng
Đau thương từ lúc vừa bước chân
Vào đường yêu
Đêm ấy mưa rơi nhiều
Giọt mưa tan tác mưa mùa ngâu
Tiễn chân người đi
Buồn che đôi mắt thấm ướt khi biệt ly
Nghe tim mình giá buốt
Hồi còi xé nát không gian
Xót thương vô vàn
Nhìn theo bóng tàu dần khuất trong màn êm
Mùa thu thương nhớ bao lần đi về có đôi
Mà người còn vắng bóng mãi
Hay duyên nồng thắm ngày ấy nay... đã phai rồi
Từ lâu tôi biết câu thời gian là thuốc tiên
Đời việc gì đến sẽ đến
Những ai bạc bẽo mình vẫn không... đành lòng quên
Anh Bằng (Sầu Lẻ Bóng)

Nói về nhạc của Anh Bằng, chúng ta không thể không bàn về những yếu tố tâm lý của những con người trưởng thành trong thời đại của ông nhất là sau biến cố chia đôi đất nước năm 1954. Những ngày ấy tôi còn thơ bé chưa hiểu gì về những ca từ mà lúc ấy có thể nói đã là một bước đi mới trong tân nhạc Việt Nam. Lời của những tình khúc của Anh Bằng rất gần gũỵi với tâm hồn bình dị không quá mỹ miều kỳ ảo mộng mơ như nhạc của Văn Cao chẳng hạn:

Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Văn Cao (Thiên Thai)

hoặc mang nhiều hình ảnh sống động thương tâm của Phạm Duy

Ngày trở về, anh bước lê
Trên quãng đường đê đến bên luỹ tre
Nắng vàng hoe, vườn rau trước hè cười đón người về
Mẹ lần mò, ra trước ao
Nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ
Tiếc rằng ta, đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ
Ngày trở về, trong bếp vui
Anh nói chuyện nghe: chuyện đời chiến sĩ
Sống say mê, đường xa lắm khi nương hồn về quê
Chiều lặn tà, anh bước ra
Vườn khuya sáng mờ, ruộng đất hoang vu
Luống nghẹn ngào, hẹn sớm tinh mơ anh về đồng lúa.
Ngày trở về, có anh nông phu chống nạng cày bừa
Vì thương yêu anh nên ngày trở về
Có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ
Ngày trở về, lúa ngô thi nhau hát đùa trước ngõ
Gió mát trăng thanh, ôi ngày trở về
Có anh thương binh sống đời hoà bình.
Phạm Duy (Ngày Trở Về)

Ca từ của Anh Bằng như lời tâm sự của một thanh niên mới lớn trước cảnh phân qua của đất nước và viễn tượng chinh chiến bùi ngùi:

Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa
Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng
Nay khóc tơ duyên lìa tan
Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ
Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi
trong bùi ngùi
Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời
Tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi
Anh Bằng (Nỗi Niềm Người Đi)

Trong không khí khẩn trương của một Miền Bắc với những lời ca hừng hực căm hờn chiến đấu, nhắm vào quân thù mà bắn mà giết, với không khí ngột ngạt giáo điều từ những buổi đấu tố đánh tư bản, những màn chôn sống hoặc những cuộc thanh trừng đẫm máu...người ta tìm thấy không khí sáng tác Miền Nam vẫn đầy tính chất nhân bản như những lời nhạc của Lam Phương, Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Châu Kỳ v.v...Song song với những bài thơ bóng bẩy ấn tượng được phổ nhạc như Người Đi Qua Đời Tôi, thơ Trần Dạ Từ phổ nhạc bởi Phạm Đình Chương

Người đi qua đời tôi trong những chiều đông sầu.
Mưa mù lên mấy vai gió mù lê mấy trời
Người đi qua đời tôi, hồn lưng miền rét mướt,
Vàng xưa đầy dấu chân, đen tối vùng lãng quên.
Bàn tay mềm khói sương, tiếng hát nào hơ nóng.
Và ai qua đời tôi, chiều âm vang ngàn sóng.
Trên lối về nghĩa trang ...
Nghe những lời linh hồn, nghe những lời linh hồn,
Trong mộ phần đen tối đen...
Phạm Đình Chương (Người Đi Qua Đời Tôi, thơ Trần Dạ Từ)

với lời lẽ có phần trừu tượng hơn, người ta đến với nhạc của Anh Bằng vì ngôn từ khá đơn giản và quen thuộc vì vậy mà dễ phổ cập trong số đông người nghe nhạc của Anh Bằng như những ca từ: ân ái, tơ duyên, mộng mơ v.v...

Anh Bằng có thể nói đến với âm nhạc một cách thuần tuý là ghi lại những âm hưởng rất người, rất nhân bản và bình dị ấy qua tâm tình của đại đa số thanh niên Việt. Âm nhạc của ông không mang một thông điệp triết lý quá cao siêu cho giới thưởng ngoạn đòi hỏi nhiều tư duy. Ông luôn bơi lội trong khúc sông mà ông đã rất quen thuộc. Và ông không ngừng nghỉ mang về từ khúc sông ấy những món ngon vật lạ. Anh Bằng không hề tạo thành một hiện tượng. Trong ca từ của ông chúng ta không thấy những đột phá như: Ru em hài nhung gấm, ru em gót sen hồng... Để một mai tôi về làm cát bụi, ôi cát bụi mệt nhoài...Đi lên non cao đi về biển rộng, đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng...Tình ta như núi rừng cúi đầu, nghe tiếng buồn rơi đều (Trịnh Công Sơn)
hay

Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly.
Tiễn em về xứ Mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách

Tuyết rơi mỏng manh buồn
Ga Lyon đèn vàng
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng.
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly.
Cung Trầm Tưởng (Tiễn Em)

Nhưng Anh Bằng luôn có một chỗ đứng đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam và ông đã hoàn tất vai trò của ông một cách khá hoàn hảo trong phạm trù được ơn cao ban xuống cho phần đời của ông. Ta có thể nói Anh Bằng đã không ngừng nghỉ làm việc và vui chơi trong dòng nước ấy, và ông luôn miệt mài khai phá những cảm hứng, những rung động mới lạ trong vùng sông nước luân lưu đó.

Có những bản nhạc phổ thơ của các thi sĩ đã mang dòng nhạc của ông đi qua những vùng nước xoáy khác, như

Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa
Em chỉ là em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ
Ai bảo em ngồi bên song
Cho vươn nợ thi nhân
Anh Bằng (Ai Bảo Em Là Giai Nhân Lời: Lưu Trọng Lư)

Hoặc

Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa
Sẽ lấy được những gì
Về bên kia thế giới
Ngoài trống vắng mà thôi
Thuỵ ơi, và tình ơi !

Như loài chim bói cá
Trên cọc nhọn trăm năm
Tôi tìm đời đánh mất
Trong vũng nước cuộc đời
Thuỵ ơi, và tình ơi !

Đừng bao giờ em hỏi
Vì sao ta yêu nhau
Vì sao môi anh nóng
Vì sao tay anh lạnh
Vì sao thân anh rung
Vì sao chân không vững
Vì sao, và vì sao !

Hãy nói về cuộc đời
Tình yêu như lưỡi dao
Tình yêu như mũi nhọn
Êm ái và ngọt ngào
Cắt đứt cuộc tình đầu
Thuỵ bây giờ về đâu ?
Anh Bằng (Khúc Thuỵ Du, Lời: Du Tử Lê)

Hay là một hợp tác chung khá độc đáo với Lê Dinh và Minh Kỳ qua bút hiệu Lê Minh Bằng:

Thằng bé âm thầm đi vào ngõ nhỏ
Tuổi ấu thơ đã mang nhiều âu lo
Ngày nó sống kiếp lang thang
Ngẩn ngơ như chim xa đàn
Nghĩ mình tủi thân muôn vàn

Mẹ nó ra đi khi còn tấm nhỏ
Một chén cơm chiều nhưng lòng chưa no
Cuộc sống đói rách bơ vơ
Hỏi ai ai cho nương nhờ
Chuỗi ngày tăm tối bơ vơ

Đêm đêm nó ngủ một manh chiếu rách co ro
Một thân côi cút không nhà
Thân em lá cỏ bạn quen ai có đâu xa
Thằng tư con tám hôm qua trên phô lê la

Miền bắc điêu tàn nên đời nó khổ
Một chén cơm chiều nên lòng chưa no
Nhiều lúc nó khóc trong mơ
Mẹ ơi ! Con yêu mong chờ
Bao giờ cho đến bao giờ
Lê Minh Bằng (Nó)

Ngôn ngữ của Anh Bằng dĩ nhiên là có đầy tính lãng mạn và mộng mơ, nhưng không nằm trong ảnh hưởng đặc thù của nhạc tiền chiến. Ngày xưa lớn lên trong miền nam tôi cũng không ngờ Anh Bằng là người được sinh trưởng ở Hà Nội, vì tôi không bao giờ cảm thấy xa lạ với ngôn ngữ của ông. Ngôn từ của ông rất đồng điệu với mọi người miền nam bất kể trình độ nào. Ông là người chia sẻ các nỗi niềm tâm sự của ông đến khắp nơi như tiếng nói chung của một thế hệ mà trong giai đoạn đó vẫn còn rất lam lũ với cuộc sống, có nhiều người chưa có cơ hội đến trường học, một số đáng kể vẫn còn mù chữ. Ông đã nói lên được tiếng nói chung cho bao nhiêu người khác cùng mang các rung động chân thành ấy.

Thiết nghỉ để hiểu giá trị vị trí và tác động của dòng nhạc Anh Bằng vào văn hoá Việt Nam chúng ta cần nhìn lại các bối cảnh xã hội và tâm lý của một nước Việt trong giai đoạn chiến chinh binh lửa. Nhạc sĩ Anh Bằng đã đóng góp thiết thực lời ca tiếng hát từ tâm hồn ông cho đại đa số người Việt Nam còn đang vật lộn với cuộc sống khó khăn, cần người nói lên tiếng lòng của họ để chia sẻ phân trần những nỗi niềm tâm sự. Tôi kính phục và cảm tạ nơi nhạc sĩ Anh Bằng một điều ông đã đạt được với tính cách một nhạc sĩ sáng tạo. Đó là sự miệt mài khai phá trong niềm đam mê của chính ông. Nhạc sĩ Anh Bằng nói một cách khác đã phong phú hoá nền âm nhạc Việt từ buổi phôi thai, và ông không ngừng nghỉ ở vai trò tiên phong ấy, ông vẫn tiếp tục miệt mài vui chơi bơi lội nơi nhánh sông mà ông đã hiến trọn đời người để tìm tòi khám phá với những sáng tạo đa dạng mới lạ mang dấu ấn đặc thù của dòng nhạc Anh Bằng.

Cát Biển

Visitors Count

SEO Services

About Me

My email: sn68pbc@yahoo.com -- My Homepage: www.catbien.com